QUY CHẾ ĐÀO TẠO CHỦNG SINH CỦA HỘI THỪA SAI VIỆT NAM
DẪN NHẬP
Công cuộc loan báo Tin Mừng khởi đi từ lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ...” (Mt 28,19). Lệnh truyền này được trao cho Hội Thánh, nhưng Chúa cũng “gọi đến với Người những kẻ Người muốn,… để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng” (Mc 3,13-14). Chính vì thế, Hội Thừa Sai Việt Nam được hình thành như một đáp ứng cụ thể cho ơn gọi truyền giáo trong Hội Thánh hôm nay.
Về, ơn gọi truyền giáo, đó không chỉ là hành động bên ngoài, nhưng còn mang một chiều kích thần thiêng sâu xa: phát xuất từ Chúa Cha, được thực hiện nhờ Chúa Con và hoàn tất nhờ Chúa Thánh Thần.[1] Như Công đồng xác quyết: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành là người được sai đi, vì chính Giáo Hội được khởi sinh từ việc Chúa Con và Chúa Thánh Thần được sai đến theo ý định của Thiên Chúa Cha.” (AG, 2)
Có câu “vô tri bất mộ” có nghĩa là “không hiểu biết, không yêu mến” được nhiều người thừa nhận, nhất là khi áp dụng vào đời sống đức tin và sứ vụ truyền giáo. Thật vậy, con người không thể yêu mến điều mà họ không hiểu biết. Nhưng để hiểu biết cách đúng đắn (tri), cần có một tiến trình học hỏi và đào luyện theo những khuôn mẫu chân chính, nhằm tránh lạc hướng hoặc ngộ nhận. Một khi đã hiểu biết đúng đắn về Thiên Chúa và kế hoạch cứu độ của Người, con người mới có khả năng yêu mến (mộ) chân lý sâu xa hơn; thì đào tạo trở thành điều tất yếu trong hành trình trưởng thành đức tin và thi hành sứ vụ của người môn đệ truyền giáo.
Do đó, việc đào tạo chủng sinh của Hội Thừa Sai không chỉ nhằm chuẩn bị cho các tác vụ linh mục, nhưng còn để họ trở thành những chứng nhân sống động của Tin Mừng (AG, 11), thấm nhuần linh đạo truyền giáo (AG, 24) và được sai đến với muôn dân (x. AG, 1.2.5.6.23).
A. MỤC ĐÍCH ĐÀO TẠO
Việc đào tạo chủng sinh của Hội Thừa Sai Việt Nam được định hướng theo sứ mạng truyền giáo, bản chất cốt lõi của Hội, dưới ánh sáng của Ad Gentes. Mục đích là hình thành những những chứng nhân sẵn sàng đến với muôn dân (AG, 6), ở giữa họ (AG, 11), và giúp họ hiểu biết về Đức Kitô (AG, 13.14.23).
Tiến trình đào tạo trước hết nhằm giúp ứng sinh lớn lên trong đời sống nhân bản và đức tin, trở thành “người của sự hiệp thông”[2] và xây dựng “mối tương quan cá vị và thân mật với Đức Kitô” (RFIS, 111). Đồng thời, ứng sinh được dẫn vào việc yêu mến và sống đặc sủng của Hội Thừa Sai qua tinh thần yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, động lực của sứ vụ (AG, 2).
Đào tạo cũng bao gồm việc củng cố nền tảng trí tuệ vững chắc, giúp ứng sinh trình bày Tin Mừng một cách phù hợp với con người hôm nay (RFIS, 123). Họ cũng cần có khả năng hòa nhập, chia sẻ đời sống với những người được sai đến, sống như Đức Kitô đã sống (x. AG, 11).
Việc đào tạo này đáp ứng các định hướng của RFIS và quy định của Giáo luật (CIC 1983, đ. 235 §1), nhấn mạnh chiều kích truyền giáo như là căn tính của Hội: không dừng lại nơi việc “gửi đi” mà là được “ở giữa” và “dẫn đưa mọi người đến với Đức Kitô”.
B. CÁC GIAI ĐOẠN ĐÀO TẠO
Chương trình đào tạo được hoạch định trên nền tảng Giáo luật hiện hành (CIC 1983), đặc biệt là các điều khoản liên quan đến việc huấn luyện linh mục (cc. 232–264), kết hợp với các văn kiện hướng dẫn của Bộ Giáo sĩ và truyền thống đào tạo riêng của Hội Thừa Sai Việt Nam.
1. Điều kiện tuyển chọn
Theo Giáo luật điều 241 §1, chỉ những người có phẩm chất đạo đức vững chắc, ý hướng ngay lành, và đủ điều kiện thể lý, tâm lý, trí tuệ mới có thể được nhận vào chủng viện. Do đó, ứng sinh của Hội Thừa Sai Việt Nam cần hội đủ các điều kiện sau:
- - Tuổi: Từ 18 đến 28 tuổi.
- - Trình độ học vấn: đã tốt nghiệp Cao đẳng hoặc Đại học hoặc có văn bằng tương đương. Những trường hợp đặc biệt sẽ do Ban Đào Tạo cứu xét.
- - Nhân thân: Có tự do hợp pháp, không mắc ngăn trở theo Giáo luật hoặc Dân luật (x. c. 1041).
- - Có thư giới thiệu của cha xứ nơi thường trú hoặc nơi đã tham gia sinh hoạt mục vụ lâu dài.
2. Các giai đoạn đào tạo
Việc đào tạo được phân thành ba giai đoạn chính:
2.1. Giai đoạn Tiền ứng sinh
- - Thời gian: Tối thiểu 1 năm, tối đa 5 năm.
- - Đối tượng: Những tìm hiểu sinh chưa hoàn tất bậc Cao đẳng/Đại học. Hội tạo điều kiện để hoàn tất bậc học này.
- - Hình thức: Sống tại lưu xá dưới sự hướng dẫn của người phụ trách.
- - Nội dung: Đào tạo nhân bản (x. Ratio, 94-109), giáo lý, linh đạo Hội Thừa Sai, khả năng sống cộng đoàn, định hướng ơn gọi.
- - Đánh giá định kỳ. Sau khi hoàn tất chương trình, tìm hiểu sinh có thể được nhận vào giai đoạn Ứng sinh.
2.2. Giai đoạn Ứng sinh
- - Thời gian: Tối thiểu 1 năm 6 tháng, tối đa 3 năm.
- - Hình thức: Sống tại Nhà Ứng sinh.
- - Nội dung: Đào sâu đời sống thiêng liêng cá nhân và cộng đoàn, linh đạo Hội Thừa Sai, đời sống huynh đệ và mục vụ cơ bản.
- - Thực tập mục vụ: Ứng sinh được gửi đến các giáo xứ hoặc giáo điểm để thực tập truyền giáo trong 06 tháng.
- - Kết thúc: Đánh giá toàn diện trước khi được tuyển chọn chính thức vào Đại Chủng viện.
2.3. Giai đoạn Chủng sinh
- - Thời gian: theo chương trình của Chủng viện, nơi được gửi đến.
- - Hình thức: Chủng sinh chính thức được gửi đến Đại Chủng viện.
- - Đồng hành: Hội vẫn đồng hành thường xuyên thông qua Ban Đào Tạo, bảo đảm sự gắn bó với linh đạo truyền giáo, hướng dẫn thiêng liêng và theo dõi tiến trình đào luyện.
- - Sau khi mãn trường: Chủng sinh được sai đến thực tập mục vụ tại vùng truyền giáo ít là 1 năm trước khi tiến tới chức phó tế và linh mục.
3. Trường hợp đặc biệt
- - Những ai đã sống trong Hội từ thời sinh viên và có đời sống ổn định có thể được rút ngắn giai đoạn Tiền ứng sinh.
- - Ứng sinh chuyển từ nơi khác đến cần có thư giới thiệu chính thức và phải trải qua thời gian hội nhập từ 1 đến 3 năm trước khi được xét tuyển chính thức.
4. Đồng hành và phân định ơn gọi
Việc đồng hành thiêng liêng là bắt buộc trong mọi giai đoạn và được xem là yếu tố trọng tâm trong việc lượng giá ơn gọi (x. Ratio, số 50, 61). Hội tổ chức các cuộc lượng giá định kỳ với sự tham dự của:
- - Ban Đào Tạo Hội,
- - Đại diện Đại Chủng viện (nếu đang theo học),
- - Cha linh hướng và người đồng hành thiêng liêng.
C. MỤC TIÊU KẾT THÚC
Người hoàn tất chương trình đào tạo phải:
- - Đạt tới sự trưởng thành về nhân cách và đức tin,
- - Sẵn sàng sống và thi hành sứ vụ truyền giáo,
- - Có khả năng sống đời sống cộng đoàn,
- - Và hội đủ các điều kiện theo Giáo luật để lãnh nhận chức thánh (x. c. 1029).