Lịch Sử Truyền Giáo

5/5
1 người đã bình chọn
Đã xem:  | Cật nhập lần cuối: 10/15/2024 10:08:58 AM | RSS

Dẫn nhập

Sắc lệnh về Truyền giáo của Công đồng Vaticanô II đã tuyên bố: “Hội thánh, tự bản chất, mang tính truyền giáo”, bởi vì Hội thánh được chia sẻ vào đời sống của Thiên Chúa, mà bản tính là tình yêu trao ban [2]. Ngay từ giây phút quy tắc thứ nhất của phiên tạo web, Thiên Chúa đã hiện diện qua Thần khí của Người và vẫn có ứng dụng tiện ích trong lịch sử hỗ trợ vào Ngôi Lời. Vì thế, khi nói đến lịch sử truyền giáo của các Thánh Kinh là chúng ta đang nói đến lịch sử của các Thánh Kinh. Trong các nghiên cứu lịch sử lớn, người ta thường phân biệt giữa “lịch sử Giáo hội” và “lịch sử truyền giáo”, nhưng càng ngày người ta càng thấy sự chia ấy là không hợp lý. Các tác phẩm như: History of the World Christian Movement, của Dale Irvin và Scott Sunquist;Cơ sở giáo dục: Lịch sử toàn cầu rút gọn của Frederick A. Norris,

Công cuộc truyền giáo không phải là điều gì ở lề lịch sử Giáo hội, nhưng nằm trong tâm điểm của Giáo hội. Lịch sử mà chúng tôi sắp xếp bàn liên quan đến hoạt động truyền giáo của Giáo hội, vì thế chúng tôi sẽ không dừng lại ở các công đồng và giáo dục hoặc các Hiệp hội giữa Giáo hội và các quốc gia. Nhưng những biến cố, phong trào và những con người mà chúng ta sẽ gặp đều là quan trọng đối với lịch sử của Toàn Thể Giáo hội. Mặc dù có một số biến cố và nhân vật cũng được nêu trong phần thảo luận thảo luận tài liệu về tài liệu của Giáo hội, nhưng vẫn còn một số điều khác có vẻ xa lạ.Tất nhiên là chúng tôi sẽ giới thiệu các nhân vật quen thuộc như Grêgôriô Cả, Charlemagne, Luther, Francis, Clara, Ignaxiô Loyola và Rosa Lima, và chúng tôi cũng sẽ kể đến các vị trí sai như Alopen, Augustinô Canturery, Cosma và Đamianô, Ramón Lull, Matteo Ricci và Marie de l’Incarnation. Nghiên cứu lịch sử Giáo dục dưới góc Nghiên cứu truyền thông giáo dục sẽ giúp chúng tôi hiểu rằng Giáo hội của chúng tôi luôn mang đặc tính phổ biến và phong cách quảng cáo của các chủ sở hữu luôn là một phong cách quảng bá toàn cầu . Sứ vụ của Giáo hội Đông Syria dọc theo “con đường tơ lụa” sang Trung quốc cũng quan trọng như sứ vụ của T. Patrick sang Ai-len và T. Bonifaxiô sang Đức. Cuộc cải cách của vua Nubia cũng nằm trong lịch sử Giáo hội tương tự như cuộc cải cách của vua Constantinô.

“Giáo hội hiện hữu để truyền giáo cũng như cháy để đốt cháy”, nhà thần học Tin lành Emil Brunner đã viết như vậy hồi thế kỷ XX [4]. Tôi hy vọng rằng những trang này tuy sơ lược nhưng sẽ chứng minh được điều đó.

  1. Sứ mệnh của Đức Giêsu tạo ra Giáo hội

Đức Giêsu là một người thừa sai, được Thiên Chúa phái đi rao giảng Vương quốc Thiên Chúa, phục vụ và làm chứng cho Vương quốc ấy. Sứ điệp của Người là tình thương vô bờ biển của Thiên Chúa, Trả tha thứ tội nhân kể cả những người đã bị khai trừ khỏi đạo truyền thống, chữa lành các bệnh nhân, trục xuất thần thần, mời mọi người hãy làm việc cùng kể cả câu trả lời. Người yêu cầu một xã hội mới, và được mời thiên hạ hạ thưởng, không được sử dụng mặc cảm tội lỗi nhưng bằng việc thay đổi não trạng, “một lối suy tưởng khác” [5], nói theo ngôn ngữ của Rudy Wiebe , một người Canada tiểu thuyết.Tất cả các lời giải và ngôn ngữ, các hành động chữa lành và trừ tà, thái độ đón nhận mọi người và các thủ pháp Luật để bảo vệ con người, giải thích ý nghĩa của lời tuyên bố cơ bản: “Thời bất thời kỳ đã mãn, triều đại Thiên Chúa đã đến gần,

Công thức thử mường tượng một thế giới mới, một hình ảnh khác về Thiên Chúa, tôn giáo và cộng đồng, cũng là một công thức bên trong đạo Do thái, nghĩa là tưởng tượng một hình thức mới của đạo Do thái, hay nói theo nhà thần học Anh giáo Kenan Osborne, “một người Do Thái kiểu khác”[6]. Mặc dù Người quy tụ một số đệ quy và cung cấp cơ sở nền tảng cho ông vũ và nhóm Mười Hai, nhưng có lẽ Người không có ý tưởng (ít nhất là vào lúc bắt đầu sứ phục vụ) đặt nền tảng cho một cộng đồng đồng về sau gọi là “Giáo hội” khác với đạo Do Thái, và tiếp nối sứ vụ của Người đã ra khỏi thế giới.

Dù vậy, Người đã hành động quyết định như là kẻ phạm thượng, như hệ luận của viễn tưởng mà Người đã sống và tuyên bố. Việc điều chỉnh công thức một con đường khác đã trở thành lãnh đạo Do thái hợp lý như một phản bội truyền thông và nguy hiểm đối với chính quyền Mã. Tuy nhiên, cái chết đã không thể chiến thắng được Người, và các môn đệ mít đã trải nghiệm Người phục sinh. Thế rồi cộng đoàn mà Người thành lập trước đây đã tiếp tục tụ hội, cùng nhau bẻ bánh để tưởng nhớ Người như Người đã nói cho họ và để lắng nghe lời khuyên của ông cường và nhóm Mười Hai. Dù vậy, kể cả sau khi cảm nhận Thánh Linh vào lễ Ngũ tuần, cộng đồng vẫn cảm thấy mình thuộc về dân Do Thái.Họ ý thức rằng mình đã được Đức Giêsu tiếp tục sứ vụ để rao giảng về Thiên Chúa của Vương quốc và làm chứng tá về Người cho dân Do thái. Thiên Chúa đã cấm cho dân dân này một cơ hội khác, sau khi Đức Chúa Giêsu phục sinh, để họ nhìn nhận Người là Mesia, và Chiến thắng trước Người đến lần thứ hai để thiết lập Vương quốc Israel. Nhưng họ khó nhận ra rằng, mình là “Giáo hội”, một thực tại khác biệt với truyền thống Đô Thái.

Thế nhưng, tăng dần, cộng đoàn nhận thức rằng trong Thánh Linh, Thiên Chúa có những chương trình khác cho cộng đoàn bé nhỏ ấy. Theo Tường thuật của sách Công vụ Tông đồ (với nội dung thần học, nhưng với sự kiện lịch sử chính xác), sau khi ông Stephanô sẵn sàng hành động vì công bố Đức Giêsu là Mêsia và đặt vấn đề về tương lai đạo Do Thái , cộng đoàn môn đệ Đức Giêsu phân tán sang các làng lân cận. Một người trong nhóm họ tên là Philiphê, đã rao giảng sứ điệp cho người Samaria (một dân tộc tạp chất giữa Do thái và ngoại đạo), và họ được vui vẻ đón nhận. Ông Philiphê cũng được gọi đi học cho một thành viên quan giám đốc ở Ethiopia lên Giêrusalem, một người làm điều kiện thể lý sẽ không bao giờ được nhận vào đạo Do thái.Thế rồi, một người bị coi là không đủ điều kiện nhập đạo Do thái thì lại được tiếp tục nhận tín đồ của Chúa Giêsu. Ông dốc may mắn đi giảng cho ông Corneliô, thuộc dân ngoại, và ông cùng với gia đình được đón nhận vào cộng đồng. Sau cùng, theo như sách Công vụ Tông đồ kể lại, một vài người trốn khỏi Giêrusalem sau cuộc hành trình quyết định ông Stêphanô, đã học đạo sang một thành phố lớn tên là Antiôkia: họ thuộc dân dân ngoại ngoại nhưng đã tin nhận Chúa Chúa Giêsu; họ được gia nhập cộng đồng và được đồng bào gọi là các “anh hùng”. Chính tại Antiôkia mà cộng đoàn các môn đệ Đức Giêsu bắt đầu ý thức về căn tính và ơn gọi của mình. Chú ý lắng nghe tiếng thỏ của Thánh Linh ngoài biên cương, họ nhận ra rằng một hình thức tôn giáo mới đang thành hình.Từ lúc đó, họ bắt đầu coi mình như là “Giáo hội”. một vài người trốn khỏi Giêrusalem sau cuộc hành động quyết định ông Stêphanô, đã học đạo sang một thành phố lớn tên là Antiôkia: họ thuộc dân dân ngoại ngoại nhưng đã tin nhận Chúa Giêsu; họ được gia nhập cộng đồng và được đồng bào gọi là các “anh hùng”. Chính tại Antiôkia mà cộng đoàn các môn đệ Đức Giêsu bắt đầu ý thức về căn tính và ơn gọi của mình. Chú ý lắng nghe tiếng thỏ của Thánh Linh ngoài biên cương, họ nhận ra rằng một hình thức tôn giáo mới đang thành hình. Từ lúc đó, họ bắt đầu coi mình như là “Giáo hội”. một vài người trốn khỏi Giêrusalem sau hành trình quyết định ông Stêphanô, đã học đạo sang một thành phố lớn tên là Antiôkia: họ thuộc dân dân ngoại ngoại nhưng đã tin nhận Chúa Giêsu;họ được gia nhập cộng đoàn và được đồng bào gọi là các “Các anh hùng”. Chính tại Antiôkia mà cộng đoàn các môn đệ Đức Giêsu bắt đầu ý thức về căn tính và ơn gọi của mình. Chú ý lắng nghe tiếng thỏ của Thánh Linh ngoài biên cương, họ nhận ra rằng một hình thức tôn giáo mới đang thành hình. Từ lúc đó, họ bắt đầu coi mình như là “Giáo hội”. Chú ý lắng nghe tiếng thỏ của Thánh Linh ngoài biên cương, họ nhận ra rằng một hình thức tôn giáo mới đang thành hình. Từ lúc đó, họ bắt đầu coi mình như là “Giáo hội”. Chú ý lắng nghe tiếng thỏ của Thánh Linh ngoài biên cương, họ nhận ra rằng một hình thức tôn giáo mới đang thành hình. Từ lúc đó, họ bắt đầu coi mình như là “Giáo hội”.

Nói cách khác, chính lúc thi hành công việc truyền giáo, có nghĩa là vượt qua biên cương của đạo Do Thái và tiếp nhận những người thuộc các dân tộc và văn hóa khác vào cộng đoàn, mà từ phòng là một nhóm của đạo Do thái, các môn đệ Chúa Giêsu bắt đầu nhận ra rằng mình khác biệt với đạo ấy. Thánh Linh hoàn đưa họ hãy đi xa hơn đạo Do Thái để giúp họ biết rằng, đức tin vào Chúa Giêsu và sứ vụ thực hiện nhân danh Người đã tạo cho họ một bước chân mới.

Cộng đoàn các môn đệ Chúa Giêsu đã vượt qua đạo Do Thái và trở thành Giáo hội. Một cách tương tự như vậy, mỗi khi sống lại động lực truyền giáo thì Giáo hội tiếp tục được thành lập, bởi vì Giáo hội tự bản chất mang tính truyền giáo.

  1. Thánh giáo và Giáo hội của Tân Ước

Mặc dù cho đến các thế kỷ thứ IV và thứ V, đặc biệt là ở mạn Đông của Palestin và trong đế quốc Ba-tu, Kitô giáo vẫn tiếp tục mang một bộ mặt với bản sắc Do thái, But in Đế quốc La Mã , cách riêng trong khu vực Tiểu Á, ở khu vực lãnh thổ hiện nay thuộc về nước Thổ-nhĩ-kỳ, bắt đầu nở rộng một Đồ giáo lớn bao gồm cả dân ngoại. Một trong những thừa sai vĩ đại của thời gian Tặng sơ khai là ông Cửu, vốn là người Đô thái. Ông đã thực hiện nhiều chuyến đi truyền giáo sang Thổ-nhĩ-kỳ và Hy-lạp, cùng các tác phẩm của ông đã để lại nhiều ảnh hưởng sâu sắc đến nỗi đau những sử gia cho rằng ông mới thực sự là người thành lập văn. Qua các lá thư của ông, chúng tôi biết rằng trong công tác truyền giáo ông có rất nhiều cộng đồng người, nam cũng như nữ.Các nhà kiệt sai lợi ích hệ thống đường sá của đế quốc La Mã để rèn luyện đạo ở những thành phố lớn, và nhờ một lá thư, chúng tôi biết giá hội đã được thiết lập tại thủ đô đô la. Trong chương 16 của thư gửi tín hữu La Mã, ông kể tên nhiều người nam nữ: bà nữ hỗ trợ Phebê, đôi vợ chồng Prisca và Aquila, Epéneto, Maria, Anđrônicô và Giunia (được xếp vào hàng tông đồ), Aristóbulô, Pérsiđê, Hermes, v.v…

Thư của ông chủ cho ta hình dung một số chức vụ trong cộng đồng. Có các tông đồ, hỗ trợ tá, ngôn ngữ sứ, thầy dạy, chữa bệnh, mục tử (xem Rm 16, 1 Cr 12, Tập 4). Các chứng từ khác của Tân ước nói đến các kỳ mục hoặc lão già, nhiều khi được đồng hóa với các giám thị (tận hạn 1 Tm 3, Tt 1, Gc 5, 14). Một số chức năng này đã được thiết lập để phụ trách công tác trong nội bộ tập đoàn, nhưng do sự tăng trưởng liên tục của các tập đoàn, họ nhận thấy rằng các chức năng đó cũng cung cấp bách khoa cho công cuộc truyền giáo, nhiều khi diễn ra trong khung cảnh bị tàn phá. Dù vậy, thư thứ nhất của ông cung đã mời gọi cộng đoàn hãy làm chứng cho niềm hy vọng của mình (1 Pr 3, 15).

III. Kể chuyện Tin khuyến khích

Các sự kiện khác của Giáo hội nguyên thủy cho biết sự hiện hữu của các khu vực và ngôn sứ lưu động, cũng như ông gần, đi từ làng này sang làng khác, từ thị trấn này sang thị trấn khác để giành được Tin khuyến khích . Những điều này được đọc trong các tài liệu cổ, có khi cổ hơn cả những bản văn pháp còn lưu giữ, có giới hạn như sách Didakhê (hoặc: Giáo huấn của XII thánh tông đồ) có lẽ ra đời đầu thế kỷ II ở Syria . Tuy nhiên, theo lời khuyên của Mike Green, có lẽ những điều tuyệt vời nhất của Giáo hội nguyên thủy là người bình thường, cả nam lẫn nữ, học đạo bằng đời sống liêm chính và vui vẻ chuyện trò chơi thân nhân lân cận về niềm tin của mình; họ “nói chuyện Tin mừng”[7].Bên cạnh hình thức học đạo phi chính thức này, nhà xã hội học vẫn giả định một hình thức truyền đạo nữa nhờ các mạng lưới giao lưu cá nhân hoặc gia đình,

Tin mừng được chia sẻ bằng cách tự động phát hiện. Tuy nhiên, có thể thông tin đạt được hiệu quả hơn là bằng chứng của các tín hữu. Thực vậy, những người ngoại đạo cảm thấy kinh ngạc vì các mối tình hữu nghị yêu nhau. Rodney Stark xác nhận điều này khi kể lại cảm giác phục hồi của dân chúng vì họ là những kiến ​​trúc sư chăm sóc cho nhau trong những cơn bão phát hiện ở thị trấn trấn đông đảo. Nhưng ông cũng cho biết thêm rằng, các tín hữu còn đi xa hơn nữa, bởi vì họ chăm sóc cả những người không phải là thành viên của cộng đoàn, và nhờ chứng tá đó mà nhiều người trở lại đạo. Thông thường, khi mắc bệnh dịch sẽ bị bỏ rơi bên đường cho đến khi chết.Trước sự kiện là những kẻ giết chủ những người đồng đạo và những người khác đạo như nhau, nhiều người cho rằng có lẽ nên theo đạo này. Điều tương tự cũng có thể nói về việc làm các tôn giáo tôn trọng đời sống hôn nhân, làm cho nhiều người chú ý, đặc biệt là các phụ nữ, Kitô giáo không cho phép ly dị, không cho phép giết trẻ thơ nữ giới , Illegal Thai. Ngoài ra, không thể bỏ qua sự kiện Kiết giáo là một đạo giáo giá trị, nghĩa là có thể phải hy sinh tính mạng. Thiên hạ ngạc nhiên khi thấy những người quan chấp nhận cái chết vì niềm tin và đặt niềm hy vọng vào đời sống sung mãn hơn sau khi chết. Tôn giáo mới mẻ này tăng cường sự giúp đỡ từ chân chính của những người thi hành sứ mạng trong cuộc sống hằng ngày.Thiên hạ ngạc nhiên khi thấy những người quan chấp nhận cái chết vì niềm tin và đặt niềm hy vọng vào đời sống sung mãn hơn sau khi chết. Tôn giáo mới mẻ này tăng trưởng giúp đỡ bằng chứng từ chân chính của những người thi hành sứ cách mạng trong cuộc sống hằng ngày. Thiên hạ ngạc nhiên khi thấy những người quan chấp nhận cái chết vì niềm tin và đặt niềm hy vọng vào đời sống sung mãn hơn sau khi chết. Tôn giáo mới mẻ này tăng trưởng giúp đỡ bằng chứng từ chân chính của những người thi hành sứ cách mạng trong cuộc sống hằng ngày.

Kiềm giáo đã bành sang lãnh thổ hiện nay thuộc nước Thổ-nhĩ-kỳ và Hy-lạp, cũng như dọc bờ biển ở mạn bắc châu Phi, và từ Antiôkia cho đến bờ biển Đông của quốc gia Giáp. Đạo cũng phát triển các quốc gia nằm giữa Ma Mã và đối thủ là đế quốc Ba-tư. Năm 301, vua Armênia, trở lại đạo nhờ thánh Grêgoriô Illuminator, đã tuyên bố toàn quốc là Kitô giáo.

Mặc dù công việc loan truyền Tin khuyến khích cho nước Etiopia (Phi châu) đã được kể trong sách Công vụ Tông đồ, chương 8, về một quan thái giám vô danh trở lại đạo, nhưng chứng hiền lịch sử về hiện diện của Ăn giáo tại nước này bắt đầu với Frumentiô, một thanh niên người Syria, vào thế kỷ IV. Anh ta bị bán làm nô lệ cho vua Axum nước Etiopia, và nhà vua trở lại đạo nhờ lời khuyên của anh. Nhà vua sai anh sang Alexandria (Ai cận) để kiếm các vị trí sai, nhưng chính anh Frumentiô được thụ phong giám mục và được Thượng phụ Alexandria sai về Etiopia.

  1. Phong cách đan xen với công việc truyền giáo

Vào đầu thế kỷ IV, số người chết hữu đã đạt tới 10 phần trăm dân số ở đế quốc La Mã. Theo Stark, để đạt được kết quả này, tỉ lệ gia tăng mỗi thập niên phải là 40%, đến mức mà vào năm 350, số người Triết đã lên đến gần phân nửa dân số[9]. Vào cuối thế kỷ III, hoàng đế Đioclêtianô đã nhận thấy sự tăng trưởng này như mối đe dọa cho tôn giáo cổ truyền của Mã cho nên ra lệnh bách hại, ở toàn quốc, các tín đồ của Cờ giáo và của tổ tôn giáo ai không cam kết thực hành đạo của La Mã. Tuy nhiên cuộc bách hại đã không thể ức chế sóng chết chết. Theo lời ông Tertullianô, máu của những vị tử đạo là mầm mống mọc lên các tín hữu mới, bởi vì các cuộc quay trở lại đạo vẫn cứ tăng tăng.Vị tân hoàng đế Constantinô nhận thấy rằng không thể ngăn chặn các kẻ giết hại, tìm cách liên minh với họ. Ông đã trở thành hoàng đế duy nhất sau trận chiến thắng ở Cầu Milvio (trừ ô La), trong đó ông ra lệnh khắc hình thập tự trên các bất ổn. Năm 313, ông ra sắc chỉ bảo dung, hợp thức hóa đạo Phật ở đế quốc, nhờ vậy đạo này được nhiều điều kiện thuận lợi. Năm 381, hoàng đế Theođosiô tuyên bố đạo Kitô là tôn giáo chính thức của đế quốc.

Mặc dầu tình thế này xem ra thuận lợi cho Tặng quà, và có những văn hào như Eusebiô Cesarêa hoan chào đón (đến độ coi hoàng đế Constantinô như là vị cục đồ thứ 13), nhưng sự thịnh vượng này phải trả giá . Trước đây Kiết giáo là một tôn giáo nhiều nguy hiểm, nay trở thành thành thành một lợi thế. Điều này dẫn đến những cuộc trở lại đạo ồ chất, hạ thấp yêu sách đức tin.

Trong bối cảnh này, một phong trào khuyến khích mới được phát triển trong Giáo dục, đó là phong khuyến khuyến tu. Một số tín hữu, nam có nữ có, nhận thấy rằng từ nay không còn có thể chịu “tử đạo đỏ” cho nên đi tìm “tử đạo trắng” của đời sống khổ hạnh. Một trong những người tiên phong của cuộc “tử đạo trắng” là thánh Antôn ẩn tu, sống trong sa mạc Ai cận cũng như vô số những nhà ẩn sĩ muốn chọn ngọc đời sống kham khổ trong sa mạc hơn là đời sống dễ ở thành phố. Họ là những người tránh thế gian; Nhưng nếu chỉ có như vậy thì họ đã không đạt được nhiều thành công như thế. Với dòng thời gian, họ trở nên nên điểm quy chiếu cho nhiều người mong muốn đi tìm một tâm linh định hướng, và như thế sống cô cắn và đau khổ của họ trở nên nên chứng minh tá trong thế giới.Như đã nói, phong trào đan tu không chỉ bao gồm nam giới mà còn có nhiều phụ nữ, trong đó phải kể đến Amma Synlectica.

Một số đan sĩ như Pacômiô và Gioan Cassianô đã bắt đầu đời ẩn sĩ ở Bắc Phi, nhưng đến khi có một cộng đồng được quy tụ chung quanh họ thì họ đứng ra điều hành và viết những bản luật nổi tiếng. Cả Pacômiô cũng như Cassianô đã du hành sang châu Âu và thiết lập các tập đoàn trên đất Pháp hiện nay. Người ta nói rằng các đan sĩ Ai đã sang Ai-len và có thể là những người sáng lập đời đan tu Ai-len sau này, sẽ phát triển dồi dào sau khi thánh Patrixiô cải thiện nhanh này vào thế kỷ V. Đời Đan bạn ở Ai-len phát triển phương pháp truyền tải thông tin giáo dục riêng của mình. Để thực hiện hành trình đau khổ, họ vượt qua biển đất ngày nay là nước Anh và Scotland với tư cách là “những người hành động của Chúa Kitô” (peregrini pro Christo).Họ rao giảng niềm tin trên con đường du hành, và một khi đã ổn định, họ mời những người khác đến cơ sở cộng đoàn, rồi từ đó lại lên đường du hành. Đan viện Iona bên Scotland là nơi xuất phát của đan sĩ Columba; một đan sĩ khác có tên là Columbanô đã sang tận nước Italia, nơi ngài thiết lập một nghiên cứu ở Gubbio. Đời đan tu bên Ai-len còn nổi tiếng vì những đan viện kép (nghĩa là cộng đoàn nam và cộng đoàn nữ sống trong những ngôi nhà riêng biệt, nhưng cùng cử hành phụng vụ với nhau). Một số tổ chức nổi tiếng phải nhanh chóng kết hợp dưới sự điều hành của thư viện mẫu Brígida ở Kildare, và đan viện được điều khiển bởi thư viện mẫu Hilda ở Whitby, miền bắc nước Anh. but cùng cử hành với nhau).Một số tổ chức nổi tiếng phải nhanh chóng kết hợp dưới sự điều hành của thư viện mẫu Brígida ở Kildare, và đan viện được điều khiển bởi thư viện mẫu Hilda ở Whitby, miền bắc nước Anh. but cùng cử hành với nhau). Một số tổ chức nổi tiếng phải nhanh chóng đến cộng đồng dưới sự điều hành của viện mẫu Brígida ở Kildare, và đan viện được điều khiển bởi thư viện mẫu Hilda ở Whitby, miền bắc nước Anh.

Phong khuyến khuyến cũng phát triển bên Tiểu Á (Thổ-nhĩ-kỳ ngày nay) và Hy lạp. Tại Capađôxia (Tiểu Á), có những người như Basiliô, em là Grêgoriô Nyssa và người bạn là Grêgoriô Naxianxô, có những người nữ như Macrina, chị của Basiliô và Grêgoriô, đã sống hầu như suốt đời trong đan viện, mặc dù về sau ba nam đều trở thành thành thành giám mục (một hiện tượng khá phổ thông vào thời điểm đó, bất chấp sự phản đối của đương sự; trong một tác phẩm viết cho các đan sĩ, Gioan Cassianô tuyên bố rằng một đan sĩ phải tránh xa phụ nữ và giám mục).[10]

Cũng như nhiều đan sĩ trên sa mạc bên Đông phương và châu Phi, thánh Bênêđictô bước vào đời đan tu vào đầu thế kỷ VI như một ẩn sĩ. Nhưng không bao lâu, nhiều người đến ẩn cư của bạn ở Subiaco (gần La) để xin hướng dẫn. Một thời gian sau, bạn viết luật rồi chuyển phòng ở phía nam, đến Monte Casino, nơi em gái là Scolastica cũng đến lập viện viện gần đó. Nếp sống đan tu của các thánh Bênêđictô ít đau khổ hơn các đan sĩ ở sa mạc. Ngài đã tìm thấy một quân đội giữa cầu nguyện và lao động, và dạy các đan sĩ điều độ trong việc ăn uống. Hạt bao lâu nếp sống đan tu này trở thành thành thành phổ thông tại châu Âu, và hàng ngàn đan viện được lập ra khắp khắp lục địa.Vào thời kỳ châu Âu bất ngờ những cuộc tấn công xâm lăng của các tộc từ phía Bắc, còn mạn Đông của đế quốc đang suy trầm, thì các đan sĩ thánh Bênêđictô làm chứng tá về kỷ luật và văn minh. Viện viện này (cũng tương tự như các viện đan viện Ai-len trước đây) đã tồn tại tại kho tàng văn hóa Tây phương, về đạo cũng như về đời. Họ duy trì các phương pháp truyền thống canh nông và thuốc nam, dạy dỗ các thanh thiếu niên tại các trường học của tu viện. Các viện nghiên cứu đã đạt được thành tiền đồng của công việc rao giảng Tin mừng, như ta đã tìm thấy nơi công trình của các thánh Bonifaxiô và Leoba bên Đức, và Augustinô Cantorbery bên Anh.Có thể Bonifaxiô khai ra hoàng đế với văn hóa địa phương của dân Saxon, thế nhưng vui mừng thay, thư viện của bạn là nơi viết ra cuốn Heliand, bản Tin mừng bằng tiếng Saxon vào thế kỷ IX. giảng dạy các thanh thiếu niên tại các trường học của tu viện. Các viện nghiên cứu đã đạt được thành tiền đồng của công việc rao giảng Tin mừng, như ta đã tìm thấy nơi công trình của các thánh Bonifaxiô và Leoba bên Đức, và Augustinô Cantorbery bên Anh. Có thể Bonifaxiô khai ra lãnh thổ với văn hóa địa phương của dân Saxon, thế nhưng vui mừng thay, thư viện của bạn là nơi viết ra cuốn Heliand, bản Tin mừng bằng tiếng Saxon vào thế kỷ IX. giảng dạy các thanh thiếu niên tại các trường học của tu viện.Các viện nghiên cứu đã đạt được thành tiền đồng của công việc rao giảng Tin mừng, như ta đã tìm thấy nơi công trình của các thánh Bonifaxiô và Leoba bên Đức, và Augustinô Cantorbery bên Anh. Có thể Bonifaxiô khai ra lãnh thổ với văn hóa địa phương của dân Saxon, thế nhưng vui mừng thay, thư viện của bạn là nơi viết ra cuốn Heliand, bản Tin mừng bằng tiếng Saxon vào thế kỷ IX.

Bên Đông Phương, từ Antiôkia và Đông Syria, các đan sĩ đi theo các thương gia trên “con đường tơ lụa” băng ngang đế quốc Ba-tư đến Trung Quốc. Sau khi giết giáo được hoàng đế Consantinô hợp thức hóa hóa ở đế quốc La Mã thì tôn giáo này chịu bách bách ở đế quốc Ba-tư tạo cho hàng vạn tín hữu bị sát hại. Với sự xuất hiện của Hồi giáo hồi thế kỷ VII, các Kitô hữu vẫn tồn tại tuy không bao giờ bị ảnh hưởng. Thế nhưng các nữ đan sĩ vẫn tiếp tục hoạt động và mở các trạm lữ hành dọc theo con đường tơ lụa. Theo một di tích khám phá bên Trung Quốc vào thế kỷ XVI, các đan sĩ Đông Syria, theo hướng dẫn của Alopen đã đến nước này hồi thế kỷ VIII, thiết lập một viện nghiên cứu ở Tràng An, một thành phố lớn nhất thế vào thời điểm đó, dịch các sách đạo Thiên Chúa sang tiếng Hoa.Gần đây, người ta khám phá ra một bộ “Giêsu thiên sai kinh”, một nỗ lực đưa ngưỡng tín hiệu vào văn hóa địa phương. Gần gũi hơn với một thế kỷ, một vị giám mục quý danh là Adam đã sống ở kinh đô và cùng hợp tác với các nhà sư để dịch các thánh kinh đạo Kitô và đạo Phật. Thay vào đó, giai đoạn mở đầu của Kitô giáo đã kết thúc khi nhà đường lắng xuống đầu thế kỷ X, và Kitô giáo đã chìm vào bóng tối. Các tiến sĩ Tây Syria cũng sớm đến Ấn Độ và có thể sẽ tiếp tục sử dụng Sri Lanka và Indonesia. Tại những địa điểm này, họ thiết lập đan viện, giúp đỡ các thương gia và chắc chắn là học viên đạo đức cho người bản xứ.Phục vụ thế kỷ sau, khi người Bồ-đào-nha đến Ấn Độ, họ khám phá một cộng đồng Chết hữu vẫn liên hệ với Thượng phụ Antiôkia và sử dụng điển điển Syria trong Dịch vụ. một vị giám mục quý danh là Adam đã sống ở kinh đô và hợp tác với các nhà sư để dịch các thánh kinh đạo Kitô và đạo Phật. Thay vào đó, giai đoạn mở đầu của Kitô giáo đã kết thúc khi nhà đường lắng xuống đầu thế kỷ X, và Kitô giáo đã chìm vào bóng tối. Các tiến sĩ Tây Syria cũng sớm đến Ấn Độ và có thể sẽ tiếp tục sử dụng Sri Lanka và Indonesia. Tại những địa điểm này, họ thiết lập đan viện, giúp đỡ các thương gia và chắc chắn là học viên đạo đức cho người bản xứ.Phục vụ thế kỷ sau, khi người Bồ-đào-nha đến Ấn Độ, họ khám phá một cộng đồng Chết hữu vẫn liên hệ với Thượng phụ Antiôkia và sử dụng điển điển Syria trong Dịch vụ. một vị giám mục quý danh là Adam đã sống ở kinh đô và hợp tác với các nhà sư để dịch các thánh kinh đạo Kitô và đạo Phật. Thay vào đó, giai đoạn mở đầu của Kitô giáo đã kết thúc khi nhà đường lắng xuống đầu thế kỷ X, và Kitô giáo đã chìm vào bóng tối. Các tiến sĩ Tây Syria cũng sớm đến Ấn Độ và có thể sẽ tiếp tục sử dụng Sri Lanka và Indonesia. Tại những địa điểm này, họ thiết lập đan viện, giúp đỡ các thương gia và chắc chắn là học viên đạo đức cho người bản xứ.Phục vụ thế kỷ sau, khi người Bồ-đào-nha đến Ấn Độ, họ khám phá một cộng đồng Chết hữu vẫn liên hệ với Thượng phụ Antiôkia và sử dụng điển điển Syria trong Dịch vụ. Các tiến sĩ Tây Syria cũng sớm đến Ấn Độ và có thể sẽ tiếp tục sử dụng Sri Lanka và Indonesia. Tại những địa điểm này, họ thiết lập đan viện, giúp đỡ các thương gia và chắc chắn là học viên đạo đức cho người bản xứ. Phục vụ thế kỷ sau, khi người Bồ-đào-nha đến Ấn Độ, họ khám phá một cộng đồng Chết hữu vẫn liên hệ với Thượng phụ Antiôkia và sử dụng điển điển Syria trong Dịch vụ. Các tiến sĩ Tây Syria cũng sớm đến Ấn Độ và có thể sẽ tiếp tục sử dụng Sri Lanka và Indonesia. Tại những địa điểm này, họ thiết lập đan viện, giúp đỡ các thương gia và chắc chắn là học viên đạo đức cho người bản xứ.Phục vụ thế kỷ sau, khi người Bồ-đào-nha đến Ấn Độ, họ khám phá một cộng đồng Chết hữu vẫn liên hệ với Thượng phụ Antiôkia và sử dụng điển Syria trong Dịch vụ.

Vào thế kỷ X, hai anh em đan sĩ Cyrillô và Mêtôđiô được giáo hội Constantinopolis phái sang phía đông để giảng đạo cho người Slav tại vùng trung-bắc châu Âu hiện nay. Theo nhiều phương diện, họ có thể được coi là phong cách đầu tiên của cuộc hội nhập văn hóa, khi chủ nhà cho rằng Tin mừng phải được giải trí và Kinh thánh phải được dịch sang tiếng Slavic bản địa. Để được như vậy, họ đã tạo ra một mẫu tự tên là Cyrillo (tuy đã được biến đổi nhiều lần). Tuy nhiên, những nỗ lực lục thích nghi của họ đã được phản đối bởi các thừa sai Latin, vì thế hai anh em hát La Mã để gặp Đức thánh cha, và được các bạn ủng hộ. Vào khoảng năm 1000, nước Nga được các đan sĩ đến từ Constantinopolis đến học đạo.Người ta kể rằng, khi các phái phái Nga đến kinh đô này, họ đã cảm động vì cảnh huy hoàng của Phụng vụ đan tu,

  1. Phong cách hành động xuất sắc với công việc truyền giáo

Dòng đan tu vẫn tiếp tục là một lực lượng truyền giáo sau ngàn năm thứ nhất và vẫn giữ đặc tính cho đến nay. Tuy nhiên vào thế kỷ XIII yên ra một phong trào khác, và sẽ giữ vai trò trò chơi chủ động trong công việc báo tin khuyến khích trong khoảng thời gian từ thế kỷ XIII đến XVI. Đó là phong trào hành khất, được khai sinh với Dòng Anh em Hèn mọn của thánh Fence xứ Assisi và Dòng Anh em Giảng thuyết của thánh Đaminh Guzmán xứ Caleruega.

Tuy nhiên các tu sĩ Phan sinh và Đaminh chỉ là hai mẫu gương của những phong trào được phổ biến thời đó, cách riêng ở miền Tây Âu. Bên Tây, các nhà lãnh đạo Giáo hội đã có nhiều quyền hành động nên có nhiều hư hỏng. Từ đó yên ra những người kêu gọi trở về với tỉnh tuyền và đơn giản của Tin, cũng như sống “nếp sống tông đồ” (vita apostolica). Trong nhóm có ông Pierre Valdo bên Pháp, là một phong trào giáo dân, được gọi là cải tổ giáo phẩm và lưu tâm hơn đến công tác nghiệp vụ. Xin lỗi rằng phong trào của ông Valdo không sử dụng cảm xúc của giáo quyền, và được kết hợp với nhiều nhóm khác (trong số đó, nhóm Humiliati xem ra chính thống và nhóm Cathari chắc chắn lạc đạo). Biệt tài của Fran và Đaminh là hoạt động cải cách tổ chức hội nhưng vẫn trung thành với cơ thể.

Ngay từ đầu, phong trào của Francis mang tính giáo dân. Chúng tôi đã biết chuyện nhỏ cải thiện và kết nối bạn với đức khó nghèo. Ngài đã rảo khắp miền Umbria để giành Tin khuyến khích, và thu hút các đồ đệ. Rồi bạn đã hát bên Đông cùng với một cuộc Thập tự chinh; Nhưng anh đã bỏ trại để theo học đạo cho nhà vua ở gần Đamieta. Sau ba ngày hội ngộ, thay vì được tử đạo như lòng mong ước, ngài được nhà vua cảm phục vì tư cách hơn là sứ điệp; lập lại, Francis được tượng trưng bởi tinh thần cầu nguyện của người Hồi giáo. Cuộc gặp gỡ này đã ảnh hưởng đến luật được viết về sau , trong đó bạn nói đến hai loại rao vặt Tin khuyến khích: trực tiếp và chứng tích.Có lẽ từ những quan niệm ấy mà người ta giao cho ngài câu nói sau đây: “Hãy luôn rao giảng Tin mừng, nhưng chỉ khi cần thiết bị mới dùng lời nói”.

Ngay từ đầu đã có những phụ nữ đi theo Francis. Người đầu tiên và gần gũi hơn cả là chị Clara, sống cùng thị trấn Assisi. Cùng với các phụ nữ khác, chị bồn chồn thân vào việc cầu nguyện, không nên chọn mình mà hãy vui công cuộc mà Francis và các anh em đang thực hiện. Họ không kín nhưng kín với thế giới, mặc dù sống trong bức tường kín theo phong cách liên tục dành cho phụ nữ. Chị Clara tranh cử nhiều em hát vùng đất Islam để làm chứng cho Tin mừng, nhưng phần lớn đã chịu tử đạo không lâu sau khi đến nhiệm sở.

Trong bài viết ngắn này, không thể bỏ qua hai thành viên dòng Phan sinh. Thứ nhất, ông Ramón Lull là một phần tử dòng Ba, là một trong những nhân vật nổi bật trong lịch sử Giáo hội và lịch sử truyền giáo. Ông xác tín rằng, những người theo đạo Hồi chỉ có quay trở lại đạo khi Tin có thể khuyến khích giảng dạy bằng ngôn ngữ của họ để họ có thể hiểu được. Vì thế ông bắt đầu học ở Ả Rập Saudi, viết cả trăm cuốn sách và dạy học ở nhiều nơi ở châu Âu. Ông đã du hành ba lần từ Tây-ban-nha sang Bắc Phi. Hai lần đầu, ông bị bắt và bị xẹp xuất hiện thời điểm, lần thứ ba thì ông bị giết.Người tu sĩ thứ hai nổi bật của dòng Phan sinh là giám mục Gioan de Montecorvino, được cử sang triều đình Trung quốc vào thế kỷ XIII, khi mà đạo Phật bắt đầu hồi sinh, tuy chỉ được một thời gian ngắn. Những bức tranh chân dung cho bạn mặc sản phẩm phục theo văn hóa Trung hòa.

Thánh Đaminh Guzmán xứ Caleruega (Tây-ban-nha) vốn là kinh sĩ của giáo phận Osma, đã cùng bề trên là Diego (sau đó thành giám mục) tháp tùng hai phái ngoại bộ giao, và những chuyến đi điều này đã tác động mạnh đến cả cuộc đời. Một lần đi ngang qua Toulouse (Pháp), cha Đaminh gặp một người Cathari, và đã nói chuyện với ông suốt đêm để trình bày về giáo dục công giáo và những sai lầm của nhóm lạc giáo. Cuối cùng, ông này Hận và trở về Giáo hội. Sau khi tổ chức một đoàn quân thanh tra của Giáo hội trong cung cách bệ vệ, đề nghị họ hãy sống thu bạc, bởi vì khung gió có thể ra mới cảm nhận được giáo dục giáo dục. Sau khi giám mục Diego qua đời, cha Đaminh chỉ còn một mình, và cha quy tụ môn đệ đệ để thực hiện một mô sống đơn giản, kết hợp với lòng đạo đức và học hành.Đó là bản gốc của Dòng Anh em Giảng thuyết, rất hấp dẫn dẫn dắt thế kỷ XIII, bao gồm những con người học thức, có tài thuyết thuyết, sống giản dị, và đã rảo qua khắp châu Âu để giảng thuyết và thiên võ công việc cải tiến. Họ cũng là ứng cử viên sang Trung Quốc, và cũng là người phản đối Francis, nhiều phụ nữ đã tham gia phong trào này ngay từ ban đẩu. Nổi tiếng nhất là chị Catarina Siena, được đồng bào biết đến qua các công thiện, rồi chị hát Avigon để chiến thắng hoàng gia về Roma, thoát khỏi ảnh hưởng của nhà vua Pháp.

Bên xứ Hà-lan, có một nhóm giáo dân nam nữ được biết đến dưới tên gọi bégards và béguines. Họ là những giáo dân nam nữ sống thành cộng đoàn, tuy không kín cổng cao tường nhưng thi hành công tác từ thiện ái. Trong số các phụ nữ thời danh, ta phải kể đến chị Marie d’Oignies, Matilde de Magdeburg, và Matilde de Hackenborn. Tuy nhiên, do nếp sống đời hoạt động của mình, rất nhiều người bị nghi ngờ và thậm chí chí chí có những người bị quyết định vì tội câu lạc bộ. Dù sao, họ biểu tượng trưng cho năng lượng phụ nữ luôn cố gắng đi sống mài sắca với ơn gọi Kiệt hữu qua việc làm thân hoạt động trên đời (và sẽ phát triển mạnh vào hai thế kỷ XVIII và XIX).

Năm 1453, thủ đô Constantinopolis đã thất thủ trước sức mạnh Hồi giáo. Đế quốc Byzantium đã suy sụp, sau mấy thế kỷ bị vây hãm bởi lực lượng Hồi giáo. Bên Đông phương, hoạt động truyền giáo bị khựng lại làm mối đe dọa của Hồi giáo, giờ đây coi như đã kết thúc.

  1. Sự xuất hiện của Dòng Tên và công việc truyền giáo trong thế kỷ XVI

Một cố gắng quan trọng trong lịch sử truyền giáo của Giáo hội diễn ra hồi thế kỷ XVI. Chân trời của châu Âu được mở rộng với công việc “khám khám phá” hay gặp gỡ các dân tộc châu Mỹ, và với việc tăng cường tiếp xúc với các dân tộc châu Á. Đó cũng là thế kỷ mà Chết giáo bị xâu xé bởi những kẻ gây ra cuộc cải cách của Luther, Calvin.

Vào cuối thế kỷ XV, Christophe Colomb “khám phá”, hoặc “gặp gỡ”, hoặc “xâm sử dụng” (phương theo quan điểm của mỗi người) một thế giới xa lạ châu Âu. Ông Colombo và những người thám hiểm Châu Âu đã tìm thấy những vùng đất rộng lớn mà dân cư chưa hề được nghe nói đến Chúa Giêsu hoặc Tin mừng. Đang khi động lực của nước Tây-ban-nha, và sau này của Bồ-đào-nha, phần lớn là vì lòng tham lam, thì nhà vua cũng quan tâm đến việc truyền giáo cho dân bản địa. Vì thế, các thừa sai dòng Phan sinh, Đaminh, Âu tinh đi theo các nhà thám hiểm trong những hành trình xâm lăng và khám phá: chính sách thu giá và kiếm.

Có những cuộc trở lại đạo, những người cũng có nhiều cuộc phiêu lưu thác các dân tộc bản địa tại Mỹ châu. Tại Española (tên gọi của quần đảo ngày nay là Cộng hòa Santo Domingo và Haiti), các thừa sai Đaminh đứng ra bảo vệ các thổ dân. Vào trước lễ Giáng sinh năm 1501, tu sĩ Antonio de Montesinos, dòng Đaminh, đã nhận được một bài tố cáo tận dụng của các địa chủ như sau: “Tất cả các ông đều phạm tội nghiêm trọng” và cần được cứu tương tự auto like những người chưa được rửa tội.[11]

Người ta kể lại rằng ngồi trong nhà thờ hôm nay có một địa chỉ trẻ tên là Bartolomé de Las Casas. Trở về quê hương Tây-ban-nha, Las Casas thụ phong linh mục, trở thành thành viên tu sĩ dòng Đaminh, và dành những năm còn lại trên đời để bảo vệ các dân tộc thổ ở châu Mỹ. Cha đã nhiều lần đi về về vượt Đại Tây dương, để bảo vệ họ trước triều đình và giáo quyền, và đã viết rất nhiều tác phẩm, xứng đáng được mang danh hiệu “Trạng sư của thổ dân châu Mỹ. Tuy nhiên, lúc đó cha đã yên ra ý nghĩa là thay thế thổ dân châu Mỹ bằng các nô lệ bị bắt từ châu Phi, nhưng cha đã sớm nhận ra điều nghịch lý và đã cấp hận vì ý tưởng này. Đây là một trong những tiếng nói (không phải là ít) của bạn hãy cẩn thận ẩn từ phía sau các nhà thừa sai lúc ấy[12].

Ở phía bên kia thế giới, vào thập niên 1530, nước Tây-ban-nha bắt đầu sử dụng đóng nước Philippines, và cũng tương tự như bên châu Mỹ Latinh, các tu sĩ dòng Đaminh, Âu tinh và Phan sinh được cử đi rao giảng khuyến khích cho dân bản xứ. Vào lúc đầu, các quyền sai rất tự do mở ra đối với văn hóa địa phương. Họ học hỏi ngôn ngữ, dịch ra tiếng tagalog sách giáo lý biên soạn tại Mêxicô. Nhưng họ liên minh với chính phủ Tây-ban-nha, làm chủ các điền điền rộng lớn và trở thành thành thành những kẻ bóc lột dân bản xứ. Một thánh vài đường móc đã được chế tạo bởi những nô lệ dưới sự giám sát của các thừa sai Tây-ban-nha. Vào cuối thế kỷ 19, nhà tiểu thuyết yêu nước José Rizal đã viết thầm công kích các tu sĩ.Mặc dù vậy, nước Philippines là quốc gia thứ ba về giáo dục giáo dục trên thế giới, và nổi tiếng về lòng trung thành với Giáo hội Công giáo.

Trong khi cha Las Casas cố gắng chinh phục người Tây-ban-nha và giáo hoàng tôn trọng nhân vị của các dân tộc châu Mỹ Latinh, thì Luther và Calvin bắt đầu thiết kế giáo hội phản phản xạ. Họ chống lại một số nguy cơ của Giáo hội thời Trung cổ (tác phong suy đồi, bê lười mục vụ, bỏ qua Lời Chúa, thực hành mê tín trong việc cử hành bí tích, mua bán ân xá). Vì không được trầm lắng nghe nên họ lập ra Giáo hội riêng. Châu Âu bị chia đôi giữa Công giáo và Phản kháng, đưa đến những xung đột không những về tôn giáo mà còn về chính trị nữa. Thêm vào đó là 200 năm chiến tranh tôn giáo, cùng những cơn bách sát người công giáo về phía người phản phản, và những cơn bách hại người phản phản về phía người công giáo.

Dòng Tên Chúa Giêsu ra đời trong bối cảnh ấy. Dòng được thành lập bởi các thánh Inhaxiô Loyola, một quân nhân đã được cải thiện trong giai đoạn điều trị vết thương thời gian và do đó mang lại dấu vết quân sự trong cách tổ chức. Hướng dẫn huấn luyện cao về kỷ luật, học hành, động lực và di động, các tu sĩ Dòng Tên đã thành công một lối sống tu trì mới mẻ: họ không phải là đan sĩ hoặc hành khất, nhưng là những tu sĩ “ hoạt động”, với số thứ tự, sẵn sàng cài đặt dưới điều kiện của Đức Thánh Cha. Dòng đã truyền bá kiến ​​thức và khả năng giảng dạy khắp Châu Âu, và thu hút nhiều người trước đó đã chuyển sang nhóm Phản xạ.

Dòng Tên cũng mang lại một mô hình mới về công việc truyền thông. Họ hát châu Mỹ Latinh và bắt đầu thiết lập các “thái ấp” (reucciones), quy tụ các thổ dân vào các thôn ấp để bảo vệ họ khỏi thực dân Tây-ban-nha và Bồ-đào-nha bắt làm nô lệnh . Họ cũng hát châu Á. Nhân vật nổi tiếng nhất chắc chắn là Francis Xaviê, một bạn đồng môn của Inhaxiô. Trước đây, cha sang Ấn Độ, và nói thẳng thắn với việc cải thiện linh hồn. Kế đó là cha sang Nhật, và rất được biểu tượng bởi nền văn hóa dân tộc này. Trong một bức thư gửi cho Inhaxiô, cha đã thuật thuật những điều kỳ diệu của người Nhật, với trình độ văn hóa cao, chân thành, và một khi nhận được chân lý thì sẵn sàng cam kết tàn thân.Trước đó, khi ở Ấn độ cha không đếm xỉa đến văn hóa địa phương, nhưng lúc ở Nhật, cha hết sức quan tâm đến văn hóa: ăn mặc mặc theo phong tục địa phương, thu nhận các cộng đồng địa phương,

Một trong những thừa sai Dòng Tên quan trọng nhất là cha Alessandro Valignano, người Ý. Cha nghĩ rằng các sai lầm phải thoát khỏi sự kiềm tỏa của người Bồ-đào-nha đang là một thế lực tại châu Á lúc ấy. Đối với người Bồ, đi theo đạo Chết có nghĩa là trở thành người Âu. Ngược lại, cha Valignano chủ tài khoản rằng, Cung giáo dục không bị bắt buộc ở Châu Âu nhưng được phép phát triển ở bất cứ nền văn hóa nào. Cha cố gắng huấn luyện Dòng Tên theo hướng dẫn. Nhận vật được biết đến nhiều nhất là cha Matteo Ricci. Cha Ricci làm việc ở Trung Quốc, thành thạo ngôn ngữ địa phương cũng như các cuốn sách cổ điển của Nho giáo, cộng thêm sự hiểu biết về khoa học phương Tây. Ân kiến ​​thức quảng bác, cha được đưa vào triều đình để làm việc;và khi qua đời, cha được an táng theo nghi lễ danh dự dành cho các nhân vật quan trọng của quốc gia. Cha đã thành công khi đưa ra một số người theo đạo; trong số đó có người trở thành linh mục.

Bên Ấn Độ, cha Roberto de Nobili Dòng Tên cũng áp dụng đường tương tự. Cha ăn mặc giống một hiền sĩ Ấn giáo, và là người Châu Âu đầu tiên thông sâu chữ Phạn. Cha thông tin cần biết về học tập, các sách thánh của Ấn giáo và trình bày thích hợp với vũ trụ quan điểm giáo dục. Xin lỗi vì có nhiều đối thủ, và những cố gắng thích nghi bị khựng lại khi thực hiện cuộc “tranh luận về các lễ nghi”. Đây là một chương trình phiền toái và đáng buồn trong lịch sử truyền giáo, tạo cho công việc thích đạo Chúa vào văn hóa địa phương bị chậm lại; mãi đến thập niên 40 của thế kỷ trước, các ngăn chặn của cuộc “tranh thảo luận về các lễ nghi” mới được giải quyết.

Cần phải nhắc đến một vị thừa sai Dòng Tên nữa ở châu Á vào thế kỷ XVII, đó là cha Alexandre de Rhodes, học đạo ở Việt Nam, người đã sáng chế bản mẫu tự viết tiếng Việt. Cha cũng là người viết một cuốn sách giáo lý, trong đó quý ông đã nhận được các nguyên tắc Khổng giáo vào lý đạo Kitô giáo. Cha cũng đào tạo các thầy giảng để đảm bảo việc truyền đạo trong một lãnh thổ rộng lớn. Cuối cùng, bị trục xuất khỏi Việt Nam, cha sang Ba-tư tiếp tục nghiên cứu đạo và qua đời tại đây.

Các tu sĩ Dòng Tên cũng làm việc với các dân tộc thổ dân Iroquois và Huron tại vùng đất nay thuộc nước Canada, và cố gắng nỗ lực thích nghi với tình thế địa phương, Các cha đi theo các đoàn người du mục và tìm cách học hỏi ngôn ngữ và phong tục của họ. Họ phải sống giữa những câu lạc bộ đang chiến tranh với nhau và được cả hai khu vực mong đợi. Một vị trí phải chịu tử đạo, như tôi Isaac Jogues và Jean de Brebeuf, cùng với René Gupil là một giáo dân; Tất cả đều được phong thánh như các vị tử đạo Bắc Mỹ. Nữ tu Marie de l’Incarnation là phụ nữ thừa sai khởi đầu của Bắc Mỹ. Chị định cư tại Montréal (Canada), mở trường học cho người thiểu số Pháp cũng như thổ dân. Nhiều phụ nữ Pháp cũng có mặt ở khu vực Montréal.Một thiếu nữ bản xứ, Kateri Tekawitha, đã theo đạo các nữ tu người Pháp và được phong thánh năm 2012.

Vào thời điểm đó, châu Âu đã tàn bạo giữa các cuộc chiến tôn giáo (giữa công giáo và phản xạ), tạo ra một bầu khí hoài nghi đối với tôn giáo và tín tưởng hơn là lý trí trí con người. Trong thế kỷ của ánh sáng, lần đầu tiên trong lịch sử, một niềm tin thác vào tiềm năng con người, kèm theo những nghi ngờ về sự hiện hữu của chiều siêu việt của con người, mở màn cho thái độ thế tục hóa tiến đến chủ nghĩa vô thần.[13] Như hệ luận về nhiều yếu tố, trong đó có phục vụ tranh luận về các lễ lễ (ở Trung hoa) và phục vụ tranh luận với nhóm Jansenist, Dòng Tên giải thể năm 1773 (mặc dù nước Nga vẫn chấp nhận cho họ hoạt động) . Cuộc bước khởi tâm linh tại châu Âu, việc giải thể Dòng Tên, sự tàn phá của Cách mạng 1789: những yếu tố này đưa đến kết thúc công cuộc truyền giáo khắp thế giới.Người ta nói rằng vào năm 1800, chỉ còn lại một số nhà giáo dục sai lầm toàn cầu. Thế nhưng bức tranh đen tối này đã thay đổi hoàn toàn thành thế kỷ tiếp theo.

VII. “Đại thế kỷ truyền giáo” và mô hình hoa nở của Hiệp hội

Năm 1880 đánh dấu dấu điểm thấp nhất – tận đáy – về hoạt động truyền giáo của Giáo hội Công giáo, nhưng đồng thời đánh dấu sự tăng trưởng của công cuộc truyền giáo của Giáo hội Kính Kháng, kéo dài cho đến đầu thế kỷ. Ông Luther và nhất là ông Calvin cho rằng việc truyền giáo không cần thiết, bởi vì ai được tiền nghiên cứu thì đã nhận được Tin khuyến khích rồi. Cánh Mộ đạo của Giáo hội Luther dưới sự hướng dẫn của Công tước Nicholas Ludwig von Zinzendorf đã thực hiện một số hoạt động giáo dục trong thế kỷ XVIII, nhưng công cuộc truyền giáo của Giáo hội Phản ứng đã được khai mở vào năm 1793, với sự thật phát hành tác phẩm nổi tiếng của ông William Carey về một phần hoàn toàn của người đã chết phải làm cho dân ngoại ngoại trở lại[14]. Thực tế là một dự án lớn.Ông Carey và một số đồng bạn đi Ấn Độ, và ít lâu sau, nhiều người cũng theo ông sang Ấn Độ, Trung quốc, Phi châu để truyền đạo. Việc truyền giáo cũng gây ra một phong trào ở Hoa Kỳ, nơi xuất phát của các quân đoàn giáo dục sang Trung Quốc, Polinesia và Đại dương châu. Nhiều Hiệp hội Truyền giáo Luân Đôn (Hiệp hội Truyền giáo; Société des Missions) được thiết lập, có tựa đề như Hiệp hội Truyền giáo Luân Đôn (LMS), Hội đồng Ủy viên Truyền giáo Nước ngoài Hoa Kỳ (ABCFM), Công ước Baptist Miền Nam (SBC).

Sự bùng nổ hoạt động truyền giáo trong thế kỷ XIX trùng lặp với châu Âu, và kế hoạch đó là Bắc Mỹ, tham gia vào chính sách thực tế dân gian. Chính sách thuộc địa đã giúp các nhà truyền giáo người Anh dễ dàng hoạt động tại các nước thuộc địa như Ấn Độ, Kenya, Bờ biển Vàng (nay là Ghana). Chính quyền thuộc địa rất hài lòng vì các thừa sai dạy các Kitô hữu trở thành những người dân tốt, các trường học của các nhà truyền giáo đã đào tạo những con người giỏi về ngôn ngữ và văn hóa châu Âu, góp phần vào công việc đào tạo các công chức phục vụ chính quyền. Các thừa sai, Công giáo hay Phản ứng phản xạ, không phải là nạn nhân của chính quyền thuộc địa, tuy vậy đôi lúc cũng trở thành thành cảm nhân, hoặc vô tình hay hữu ý. Một ví dụ rõ ràng là anh Samuel Ajayi Crowther.Trong khi anh được đưa lên tàu từ Nigeria để làm nô lệ, thì quân đội Anh đã theo dõi và ngăn chặn. Anh được phóng to và đưa về một nơi hoàn toàn tại Freetown (nước Sierra Leone). Sau đó, anh được về quê hương để học đạo ở Yurubaland, nơi anh trở thành giám mục. Xin lỗi rằng nhiệm vụ vị trí không phải là một người Phi mà là người Âu.

Năm 1815, hòa bình được tái lập sau trận chiến của Napoléon tại Waterloo. Cũng trong năm đó, lệnh giải nén Tên đã được rút lại. Các dòng tu được cách mạng trục xuất ra từ nước Pháp hồi hương và thiết bị tái sinh. Các giáo hoàng, sau khi đã bị Napoléon uy hiếp (Piô VII và Piô VIII) đã lấy lại uy tín ở châu Âu. Trong thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, chỉ có đôi ba dòng được thành lập: Dòng Chúa Thánh Thần (1703), Thừa sai Bửu huyết (1815), Hiến sĩ Đức Mẹ vô nhiễm (1816), Dòng sư huynh Mariste ( 1817).Thế nhưng gần hơn vào năm 1830, được cho là thời điểm bùng nổ các dòng truyền giáo: các dòng cha Maristes (1836), Dòng Trái tim Đức Mẹ của cha Francis Libermann (1848) về sau sát nhập vào Dòng Chúa Thánh Thần, Dòng Thừa sai Thánh Tâm của cha Jean Jules Chevalier (1850), Dòng Thừa sai Mill Hill (1866), các dòng Dòng trắng (Peres Blancs) năm 1868, Dòng Ngôi Lời của cha Arnold Janssen (1875), Dòng Thừa sai Comboni ( thập niên đại 1840). Nhiều dòng nam cũng có nhánh nữ, thiết kế nữ tu Maristes, Bửu huyết, Comboni, Thừa sai Thánh Linh. Bên Hoa kỳ, hai dòng Nữ tu Thánh Thể và Nữ tu Thánh Gia được thiết lập để làm việc với những người Mỹ gốc Phi, tuy Dòng Nữ tu Thánh Thể (do thánh Katherine Drexel lập) cũng làm việc với người Hoa bất kỳ.

Vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX có hàng ngàn vị thừa sai đi truyền giáo. Theo lịch sử gia Dana Robert[15], 60% các nhà truyền giáo phản ứng người Hoa Kỳ thuộc nữ giới. Phía Công giáo cũng có những phụ nữ thừa sai nhưng không có nhiều như phương pháp phản phản. Công tác truyền thông khá đa dạng: trường học, bệnh viện, các công tác bác ái xã hội. Rất nhiều sai lầm đều có một ý tưởng rõ ràng về công tác truyền giáo, đó là tình yêu của các linh hồn và xây dựng giáo hội địa phương. Phần lớn suy nghĩ và giảng dạy rằng những người đã chết mà không được rửa tội sẽ phải chịu mùi hôi (hoặc ít nhất là vào địa ngục). Các nền văn hóa và tôn giáo bản địa coi là xấu xa, và cần phải bỏ để trở thành những người theo chân chính.Đây là giai đoạn “xác tín”[16], “đại thế kỷ” như lịch sử Kenneth Latourette đặt tên cho bộ sách lịch sử truyền giáo bao gồm ba quyền.

Năm 1910, 1.200 đại biểu của các tôn giáo khác đã được tổ chức Hội nghị Truyền giáo quốc tế tại Edinburg, với chủ đề tài: “Làm việc báo tin khuyến trong thế hệ ngày nay” (do John R. Mott tip up ). Xin lỗi rằng xác tín quá lạc quan có vẻ lâu sẽ bị lung lay.

VIII. Thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI

Bất chấp những tàn tích do hai cuộc thế chiến xảy ra vào tiền bán thế kỷ XX, giai đoạn “xác tín” vẫn tiếp tục kéo dài một thời gian. Thế nhưng đó là một sự thật luôn bị đe dọa bởi những phong trào lưu thần học mới, nhận thức mới về văn hóa, sự kết nối của chế độ thực dân và tỉnh dậy của chủ nghĩa ái quốc, sự phục hồi tôn giáo ghi địa chỉ tôn giáo. Tại cuộc họp Công đồng Vaticanô II (chúng tôi xin tập trung vào Giáo hội Công giáo), người ta cảm thấy việc thay đổi khí cụ, đưa ra điều mà cha Robert J. Schreiter đặt tên là “giai đoạn dậy men” của công truyền thông.

Vaticanô II đã trình bày một hình ảnh khác về Giáo hội. Việc truyền giáo được coi là thành phần cấu hình, cơ bản của Giáo hội, không có chế độ hoạt động tại một vùng lãnh thổ nào, cũng không giới hạn một số người trong những cảnh đặc biệt. Sắc lệnh về Truyền giáo của Công đồng Ad gentes (AG) phần nào hy vọng lại một cuộc bầu cử của Hội đồng Đại kết các giáo hội tại México năm 1963, nói đến việc truyền giáo “khắp sáu châu lục”.[18] Văn hóa hóa, như được trình bày trong AG và Hiến pháp Gaudium et Spes (GS), được xem cách tích cực, và nhà giáo được mời gọi hãy tìm cách nhận ra những kho tàng phong phú mà Thiên Chúa đã phân phát cho dân gian tộc.[19] Trong Tuyên ngôn về sự liên lạc với các tôn giáo ngoài Kitô giáo Nostra Aetate (NA), Công đồng nhìn nhận rằng,Nơi tôn giáo tôn giáo phản chiếu một chân lý chiếu sáng của mọi người. Công đồng đã nêu rõ là ơn cứu độ có thể bị cấm ngoài đức tin minh nhiên vào Chúa Kitô (x. LG 16).

Giai đoạn “dậy men” mang lại nhiều tư tưởng mới cho việc truyền giáo nhưng cũng sớm đặt lại vấn đề liên quan đến quan điểm cổ điển về truyền giáo, về phía Giáo hội Công giáo cũng như về phía Giáo hội Phản phản. Theo như lời phát biểu của giám đốc Stephen Neil thuộc Anh giáo, nếu tất cả là truyền giáo thì ý kiến ​​kiến ​​còn gì nữa. Nói cách khác, nếu toàn thể Giáo hội là sứ vụ thì ý tưởng còn sứ vụ nào đặc biệt dành cho các nền văn hóa, cũng có ý tưởng còn những nhà thừa sai đi đến các văn hóa hóa hay quốc gia khác. Nếu các nền văn hóa đều thánh thiện và tốt lành thì các Kitô hữu có trí tuệ sẽ làm gì thoải mái cho họ với một tôn giáo Tây phương?Điều gây ra nhiều khúc mắc nan giải hơn có thể là thế này: nếu tất cả mọi người có thể được cứu mà không cần phải biết Chúa Kitô và Giáo hội của Người thì tại sao một số người phải bỏ quê hương và văn hóa của mình để đi rao Tin khuyến khích? Sau Công đồng Vaticanô II, các ơn gọi thừa sai bắt đầu giảm; nhiều vị thừa sai rời bỏ nhiệm sở và trở về quê hương của mình. Vào cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80, người ta nói đến một thứ “đập chỉ” hoạt động truyền giáo. Tại một số quốc gia truyền thông, có những người yêu thích ngoại quốc hồi hương, và dành số tiền chu cấp cho họ để phát triển nền giáo dục hội địa phương.

Tuy nhiên, vào năm 1975, sau Thượng hội đồng giám đốc về công việc Tin khuyến khích và ban bố Tông huấn luyện Evangelii Nuntiandi (EN) của ĐTC Cú VI, cũng nhờ những biến cố tương tự về phía Giáo hội Phản ứng , tựa đề như Nghị viện Nairobi của Hội đồng đại kết các Giáo dục và nghị viện Lausanne của Giáo hội Tin lành năm 1974, hoạt động truyền giáo đã chứng kiến ​​​​một cuộc “tái sinh”. Tông huấn EN mở rộng khái niệm giáo dục đến mức độ bao gồm các hoạt động như nhập văn bản và tranh đấu cho công lý và giải phóng. Việc mở rộng khái niệm truyền giáo được tiếp tục trong thông điệp Redemptoris Missio (RM) của ĐTC Gioan Phaolô II, trong đó tuyên bố rằng truyền giáo là một “thực tại duy nhất nhưng nhiều mặt”[20].Công việc truyền giáo không chỉ bao gồm hội nhập văn hóa và thực hiện công việc mà vẫn còn đối thoại tôn giáo nữa. Ở số 37,

Vào những năm tiếp theo RM, khái niệm truyền giáo vẫn tiếp tục phát triển. Sau biến cố Hội nghị Medellin năm 1968 của Liên hiệp Hội đồng Giám mục châu Mỹ Latinh, yên ra thần học giải phóng, không mang tính lý thuyết nhưng mang tính thực hành (hành động / suy tư) của các cộng đoàn giáo hội cơ sở cơ sở giải phóng chính trị và xã hội cũng như giải phóng tội phạm cá nhân và cấu hình, gây ra áp dụng chế độ. Cha Robert J. Schreiter đã đề xuất xuất bản một hệ thống suy tư về sự cần thiết phải bao gồm các dịch vụ hòa giải như là thành phần của truyền giáo trong một thế giới đầy bạo lực như ngày nay.Đặc biệt, sau sự sụp đổ của các chế độ áp dụng như ở Nam Phi, Argentina và Nicaragua, sau cuộc diệt chủng xảy ra ở Rwanda và Burundi, việc hòa giải không còn là một thực tại lý thuyết nữa mà là một điều cần thiết thiết lúc khẩn cấp.

Tòa Thánh lo lắng là xu hướng định hướng của các giáo hội châu Á làm lu mờ vị trí trung tâm của Chúa Kitô trong quá trình nghiên cứu thế giới. Mặc dù cách thức của những lần can thiệp về phía Tòa thánh không chính xác lắm, nhưng nội dung của vấn đề thực sự rất quan trọng. Một cuộc đối thoại với các thuộc tính tín hiệu khác chỉ có thể tiến hành một khi chúng ta có ý thức rõ ràng về vai trò độc nhất của Chúa Kitô trong lịch sử nghiên cứu.

Dần dần vấn đề di dân cũng trở nên nổi bật trong hoạt động truyền giáo của Giáo hội. “Thế giới của các miền truyền giáo” quay trở về với “các giáo hội mẹ”. Hiện tại không còn các giáo hội “sai đi” hoặc “tiếp nhận” nhưng tất cả đều sai đi và tiếp nhận. Trong Giáo hội, thực tại này vẫn mang một ý nghĩa khác. Bên Tây phương, các ơn gọi thừa sai xa, càng ngày càng phải phái các thừa sai từ “thế giới thứ ba” hát các vùng truyền giáo khác, hay hát các nước Tây phương để thi hành mục phục vụ cho người dân dân . Ví dụ như trong Dòng Ngôi Lời của tôi, gần 1/6 phần tử tử là người Indonesia, và phần lớn các sản phẩm khác đến từ Indonesia, Ấn Độ và Philippines.Tôi đang viết bài này từ Australia, và tham gia chương trình đào tạo là các phần tử đến từ vùng Thái-bình-dương, Ấn Độ và Việt Nam. Bên bờ các Giáo hội phản xạ, nhiều cường độ được nói đến từ Hàn Quốc. Nhiều sai sót của thế giới thứ ba được cử đến châu Âu, Bắc Mỹ, Australia và New Zeland để tái sinh Tin khuyến mãi cho những văn hóa liên tục hóa và bịt tai trước sứ điệp của Tin khuyến khích. Đương nhiên, điều này kéo theo nhiều vấn đề đặc biệt của nó.

Ngoài ra, ngày nay công việc truyền giáo được thực hiện phần lớn bởi các nền giáo dục dân gian. Nhiều người chỉ tham gia công việc truyền giáo trong một thời gian ngắn, từ một tuần (các bác sĩ được cử đến Haiti) cho đến một vài năm (Hiệp hội tín hữu truyền giáo Maryknoll ký đồng đồng 5 năm và có thể lặp lại được tinh chế lại). Có thể nói rằng, công tác truyền giáo quan trọng hiện nay là loại được thực hiện với các giáo dân trong thời gian ngắn hơn, đến nỗi đau nói đã đến giai đoạn của các giáo dục dân gian thừa trong thời gian ngắn.

Kết luận

Điều đã được viết trong một số trang chỉ là một lời giới thiệu sơ lược về lịch sử trải nghiệm dài của Giáo hội, được đánh dấu bằng chứng chỉ truyền thông giáo dục giáo dục. Tuy nhiên, tôi hy vọng rằng những yếu tố này đã đủ để độc giả khám phá vị trí trọng yếu của hoạt động truyền giáo trong suốt lịch sử hiện hữu của Giáo hội. Các tác giả về Giáo hội học và lịch sử tôn giáo Mẹo ý là họ đang sống trong một thời kỳ nguyên thủy của “Giáo hội toàn cầu”. Tuy nhiên, người bình dân ai đã hiểu biết về lịch sử của Giáo hội thì biết rằng họ vẫn luôn sống kỷ nguyên ấy. Được giáo dục ra ở châu Á, được truyền bá phía Đông sang Ba-tư và đến tận Trung Hòa, phía nam đến Ethiopia và Nubia, phía Tây sang Bắc Phi, phía Bắc sang lãnh thổ hiện nay thuộc nước Pháp, Đức, Ai -len, Anh, Scotland.Khi châu Âu “khám khám phá” các vùng đất mới, thì Giáo hội cùng đi với họ. Điều này muốn nói rằng Giáo dục đến gặp gỡ đạo Zoroaster, đạo Do Thái, đạo Mã, đạo Islam, các tôn giáo ở Bắc Âu, Ấn giáo, Phật giáo, Khổng giáo, các tôn giáo bản địa ở Indonesia và Philippines. Nhiều sai tiêu đề như Alopen, Cosma và Đamianô, và Alexandre de Rhodes, đã coi trọng các nền văn hóa địa phương, và giống như Francis Assisi, Bartolomé de las Casas và Marie de l’Incarnation, tận dụng dịch vụ tăng cường cường tiến nhân sản phẩm của dân tộc. Tuy nhiên, công việc truyền giáo cũng có bộ mặt tối của nó. Những kẻ mạnh sai như Bonifaxiô và các tu sĩ Tây-ban-nha bên châu Mỹ đã không tôn giáo quan trọng địa phương, và rao giảng một giáo phái diệt văn hóa.Nhiều sai lầm đã tăng lên các phương pháp tôn giáo địa phương là xấu xa. Nhiều sai đã cộng tác vào việc mở rộng chủ nghĩa thực dân ở thế kỷ 19. các tôn giáo ở Bắc Âu, Ấn giáo, Phật giáo, Khổng giáo, các tôn giáo bản địa ở Indonesia và Philippines. Nhiều sai tiêu đề như Alopen, Cosma và Đamianô, và Alexandre de Rhodes, đã coi trọng các nền văn hóa địa phương, và giống như Francis Assisi, Bartolomé de las Casas và Marie de l’Incarnation, tận dụng dịch vụ tăng cường cường tiến nhân sản phẩm của dân tộc. Tuy nhiên, công việc truyền giáo cũng có bộ mặt tối của nó. Những kẻ mạnh sai như Bonifaxiô và các tu sĩ Tây-ban-nha bên châu Mỹ đã không tôn giáo quan trọng địa phương, và rao giảng một giáo phái diệt văn hóa.Nhiều sai lầm đã tăng lên các phương pháp tôn giáo địa phương là xấu xa. Nhiều sai đã cộng tác vào việc mở rộng chủ nghĩa thực dân ở thế kỷ 19. các tôn giáo ở Bắc Âu, Ấn giáo, Phật giáo, Khổng giáo, các tôn giáo bản địa ở Indonesia và Philippines. Nhiều sai tiêu đề như Alopen, Cosma và Đamianô, và Alexandre de Rhodes, đã coi trọng các nền văn hóa địa phương, và giống như Francis Assisi, Bartolomé de las Casas và Marie de l’Incarnation, tận dụng dịch vụ tăng cường cường tiến nhân sản phẩm của dân tộc. Tuy nhiên, công việc truyền giáo cũng có bộ mặt tối của nó. Những kẻ mạnh sai như Bonifaxiô và các tu sĩ Tây-ban-nha bên châu Mỹ đã không tôn giáo quan trọng địa phương, và rao giảng một giáo phái diệt văn hóa.Nhiều sai lầm đã tăng lên các phương pháp tôn giáo địa phương là xấu xa. Nhiều sai lầm đã cộng tác vào việc mở rộng chủ nghĩa thực dân trong thế kỷ 19. đã coi trọng các nền văn hóa địa phương hóa, và tương tự như Francis Assisi, Bartolomé de las Casas và Marie de l’Incarnation, slide body nghiệp thăng tiến nhân sản phẩm của dân dân. Tuy nhiên, công việc truyền giáo cũng có bộ mặt tối của nó. Những kẻ mạnh sai như Bonifaxiô và các tu sĩ Tây-ban-nha bên châu Mỹ đã không tôn giáo quan trọng địa phương, và rao giảng một giáo phái diệt văn hóa. Nhiều sai lầm đã tăng lên các phương pháp tôn giáo địa phương là xấu xa. Nhiều sai lầm đã cộng tác vào việc mở rộng chủ nghĩa thực dân trong thế kỷ 19.Đã coi trọng các nền văn hóa địa phương hóa, và các tương tự như Francis Assisi, Bartolomé de las Casas và Marie de l’Incarnation, slide thân phục vụ thăng tiến nhân sản phẩm của dân dân. Tuy nhiên, công việc truyền giáo cũng có bộ mặt tối của nó. Những kẻ mạnh sai như Bonifaxiô và các tu sĩ Tây-ban-nha bên châu Mỹ đã không tôn giáo quan trọng địa phương, và rao giảng một giáo phái diệt văn hóa. Nhiều sai lầm đã tăng lên các phương pháp tôn giáo địa phương là xấu xa. Nhiều sai lầm đã cộng tác vào việc mở rộng chủ nghĩa thực dân trong thế kỷ 19. và rao giảng một cuộc chiến trừ văn hóa. Nhiều sai lầm đã tăng lên các phương pháp tôn giáo địa phương là xấu xa. Nhiều sai lầm đã cộng tác vào việc mở rộng chủ nghĩa thực dân trong thế kỷ 19.và rao giảng một cuộc chiến trừ văn hóa. Nhiều sai lầm đã tăng lên các phương pháp tôn giáo địa phương là xấu xa. Nhiều sai lầm đã cộng tác vào việc mở rộng chủ nghĩa thực dân trong thế kỷ 19.

Ngoài ánh sáng và bóng tối, còn có một yếu tố khác nữa. Trong Tông huấn Evangelii Nuntiandi, ĐTC đã lưu ý rằng “Thánh Linh là tác nhân chính của cuộc báo tin Tin mừng”[21]. Chính Thánh Linh là sinh vật tạo thánh hội, tiếp tục trang bị cho Giáo hội bằng những ân huệ ban cho các tín hữu để thi hành sứ sứ, và liên lỉ thức thức họ hãy bỏ các “choỗ tiện nghi” để thực hiện ý Chúa trên thế giới. Thực ra, lịch sử truyền giáo là lịch sử của Thánh Linh, mặt trái của lịch sử Thiên Chúa trong cuộc tạo dựng. Đặc ân và vinh dự của chúng ta thử nghiệm như Giáo hội, hệ thống ở phòng thông dự một cách nào đó, tức là trở nên bí tích, của lịch sử tình yêu, chữa bệnh và giải phóng sức khỏe.

———————————

Phụ lục: Thư mục về lịch sử truyền giáo

Đương nhiên, có nhiều cách trình bày lịch sử truyền giáo, ví dụ như Mario Menin, Lịch sử và các mẫu truyền giáo, trong: Thời sự thần học số 70 (tháng 11 năm 2015) trang 135-166.

Trong bài tổng hợp ở đây, cha Evans chú ý đến sự đóng góp của các giáo dân và các dòng tu vào công cuộc truyền giáo. Dù sao, theo thời gian “khám phá” các lục địa mới, thiết bị tưởng tượng không thể bỏ qua vai trò của triều đình hai nước Tây-ban-nha và Bồ-đào-nha trong công việc truyền giáo qua thể chế “bảo vệ” (Padronado). Ngoài ra, cũng cần phải có lời khuyên của Tòa Thánh qua Bộ Truyền bá đức tin (được thành lập năm 1622), và lời khuyên của các Hội Giáo hoàng Truyền giáo.

Sau đây là một số tác phẩm cổ điển về lịch sử truyền giáo:

Bosch, David J., Sứ mệnh biến đổi: Những thay đổi mô hình trong Thần học Truyền giáo, Orbis Books, Maryknoll NY 1991.

Comby, Jean, Deux mille ans d’évangélisation. Histoire de l’expansion chrétienne. Desclée, Tournai 1992.

Delacroix, Simon (dir.), Histoire universelle des Missions Catholiques, 4 voll., Editions de l’Acanthe-Grund, Monaco-Paris 1956-1959.

Gonzalez, Justo L., Historia de las Misiones, La Aurora, Buenos Aires, 1970.

Irvin, Dale T. – Sunquist, Scott W., History of the World Christian Movement, vol.I: Earliest Christianity to 1453, Orbis Books, Maryknoll N.Y., 2001.

Latourette Kenneth Scott, A History of the Expansion of Christianity, 7 voll., New York 1937-1945 (được tóm lược thành một cuốn The Christian Outlook, năm 1948).

Martina Giacomo – Dovere Ugo, Il cammino dell’evangelizzazione. Problemi storiografici, Il Mulino, Bologna 2001.

Schmidlin Joseph, Katholische Missionsgeschichte, Steyl, 1924 được bổ túc bởi Alphons Mulders, Missiegeschiedenis, Bussum 1957.

—————————————-

[1] Chú thích của người dịch. Bài này chỉ là tóm lược của cuốn sách do cùng tác giả biên soạn: Stephen B. Bevans – Roger P. Schroeder, Constant in Context. Theology of Mission for Today, Claretian Publications, Quezon City (Philippines) 2005. (Bản dịch tiếng Việt của LM Đaminh Ngô Quang Tuyên: Trung thành và thích nghi. Một thần học truyền giáo cho hôm nay. Saigon 2015). Trong bài này, chúng tôi dịch “Protestantism” là “Phản Kháng”, dành thuật ngữ “Tin Lành” cho “Evangelicals”.

[2] Công đồng Vaticanô II, Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo hội “Ad gentes” (AG), 2.

[3] Dale Irvin & Scott Sunquist, History of the World Christian Movement (Maryknoll, NY: Orbis Books, 2001 / 2010); Frederick A. Norris, Christianity: A Short Global History (Oxford: OneWorld Publications, 2002).

[4] Emil Brunner, The Word in the World (London: SCM Press, 1931), 11.

[5] Rudy Wiebe, The Blue Hills of China (Toronto, Canada: McClelland & Stewart, New Canadian Library Edition, 1995), 258.

[6] Kenan Osborne, A Theology of the Church for the Third Millennium: A Franciscan Approach (Leiden: Brill, 2009).

[7] Michael Green, Evangelism in the Early Church (Grand Rapids, MI: William B. Eerdmans Publishing Company, 1970), 173.

[8] Rodney Stark, The Rise of Christianity (San Francisco: Harper Collins Publications, 1996).

[9] Ibid., 3-27.

[10]Jean Cassien, De Institutis Coenobiorum et de Octo Pincipalium Vitiorum Remediis, XI, 18 (in: J.-C. Guy, ed., SC 108.444). Nguyên bản tiếng Latinh như sau: “. . . omnimodis monachum fugere debere mulieres et episcopos.”

[11] Nguyên văn bài giảng có thể đọc trong Gustavo Gutiérrez, Las Casas: In Search of the Poor of Jesus Christ (Maryknoll, NY: Orbis Books, 1993), 29.

[12] Xem Justo L. González, “Voices of Compassion,” Missiology: An International Review, 20, 4 (1992): 163-­173.

[13] Về lịch sử chi tiết của tiến trình này, xem: Charles Taylor, A Secular Age (New York: Oxford University Press, 2006).

[14] Chú thích của người dịch. Tựa đề tác phẩm của ông William Carey (1761-1834) là: “An Enquiry into the Obligations of Christians to Use Means for the Conversion of the Heathen”.

[15] Dana L. Robert, Phụ nữ Mỹ trong sứ mệnh: Lịch sử xã hội về suy nghĩ và thực hành của họ (Macon, GA: Nhà xuất bản Đại học Mercer, 1996), 37.

[16] Robert J. Schreiter, “Những thay đổi trong thái độ của Công giáo La Mã đối với việc chiêu mộ đạo và truyền giáo,” trong James A. Scherer và Stephen B. Bevans , eds., Những hướng đi mới trong truyền giáo và truyền giáo w: Tổ chức thần học (Maryknoll, NY: Orbis Sách, 1994), 113-125.

[17] Kenneth Scott Latourette, A History of the Expansion of Christian (New York: Harper & Brothers, 1937-1945), Các quyển 4, 5 và 6 bao trùm “Đại thế kỷ” trong khoảng thời gian 1800 và 1914.

[18] Conferencia sobre Misión Mundial y Evangelismo (CWME), Ciudad de México, 1963.

[19] Vaticanô II, Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo hội, Ad Gentes, 11.

[20] ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio, 41.

[21] EN 75.